Vừng
là một loại gieo trồng bằng hạt phơi khô, dễ mọc, cả loại đen vàng đều có tác
dụng tốt trong làm thuốc.
1. miêu tả:
Vừng,
tên khoa học là Sesamumindicum DC., còn được gọi là vừng mè, có tên khác như du
tử miêu, cự thắng tử, chi ma, hắc chi ma, hồ me…
Vừng
là một loại cây nhỏ, thân có rất nhiều lông, cây thảo sống hàng năm, cao khoảng
0,60m. Lá đơn mọc đôi, không có lá kèm, nguyên, có cuống. Hoa trắng hồng mọc trơ
trẽn ở kẽ lá lưỡng tính, không đều có cuống ngắn.
Đài
hơi hợp ở gốc, đài 5 thuỳ có lông mềm. Tràng hình ống có hai môi, môi dưới có 3
thuỳ môi trên có 2 thuỳ, có 4 nhị: 2 nhị to, 2 nhị nhỏ 2 lá noãn, đầu nhị có 2
nuốm, bầu có vách giả chia thành 4 ô, mỗi ô chứa một dãy dọc nhiều noãn.
Quả
nang dài có lông, 4 ô nở thành 4 mảnh. Nhiều hạt nhỏ dẹt màu vàng hoặc màu nâu
đen. Lá mềm chứa nhiều dầu.
Vừng
được trồng khắp nơi trong nước, có nơi được trồng theo thời vụ xen kẽ trồng lúa,
thu hoạch vào các tháng 7, 8 và 9 trong năm thu lấy toàn cây phơi khô đập chắt
lọc lấy hạt.
Có
hai chủng vừng hạt vàng có loại quả tròn, vừng đen vỏ hạt đen. Vừng là một loại
gieo trồng bằng hạt phơi khô, dễ mọc, cả loại đen vàng đều có tác dụng tốt trong
làm thuốc.
2. Tính chất dược lý, thành
phần:
Trong
Đông y, vừng có vị ngọt, béo tính bình, không độc, vào 4 kinh phế, tì, gan và
thận, có tác dụng bổ gan và bổ thận, tăng hồng huyết cầu. Rất tốt trong điều trị
táo bón, nhuận gan mật và lợi tiểu.

100mg
vừng đen sinh 560 calcori, có thành phần như sau: 7,2g nước, 19g protein, 50g
lipid, 18g glucid, 780ng photpho, 620mg kali, 1257mg calci, 347mg manhê, 1,1mg
đồng, 11,5mg sắt, 3,1mg mangan, 5mg nicotinamid. Ngoài ra còn có lecithin,
phytin, cholin.
100g
vừng trắng sinh 587 calori, có thành phần như sau: 7,2g nước, 25g protein, 55g
lipid 6,9g glucid, 702mg photpho, 423mg kali, 71mg calci, 220mg manhê, 1mg đồng,
4,3mg sắt, 2,2mg mangan, 6mg nicotinamid.
Mặc
dù phân tách hoá học không thấy khác biệt nhiều giữa thành phần cuả vừng trắng
và vừng đen nhưng kinh nghiệm sử dụng chỉ dùng vừng đen với ý nghĩ màu đen đi
vào thận nên vừng đen bổ thận.
3. Công dụng của vừng
đen:
– Trị táo bón:
Vừng
đen bổ thận, sinh tân dịch vừa làm trợ nhuận do bổ âm vừa có chất dầu, chính vì
vậy trị báo bón cả gốc lẫn ngọn.
Theo
kinh nghiệm dân gian, khi bị táo bón có thể dùng bài thuốc tang ma hoàn gồm vừng
đen và lá dâu. Có thể luộc lá dâu non rồi chấm với vừng.
Bài
thuốc có cả 2 thành phần đều bổ âm sinh tân dịch. Chất dầu của vừng làm phân
trơn nhuận, tăng tiết mật, lá dâu làm kích thích nhu động ruột làm phân không
đóng tảng.
Tác
dụng rất tốt, hiệu quả nhuận tràng êm dịu, không gây đau thắt như các thuốc
nhuận tràng kích thích.
– Làm giảm cholesterol máu, phòng các bệnh tim
mạch:
Vừng
còn có chứa 2 loại chất xơ đặc biệt là sesamin và sesamolin thuộc nhóm lignan.
Hai chất xơ này đã được chứng minh là có tác dụng làm giảm cholesterol ở người,
ngăn ngừa huyết áp cao và kích thích giảm cân.
Hạt
vừng còn có chứa phytosterol một loại hợp chất có cấu trúc hóa học rưa rứa
cholesterol với hàm lượng 400 – 413 mg/100 g, nên có khả năng làm giảm
cholesterol trong máu.
Hàm
lượng magie cao trong hạt vừng cũng giúp làm giảm và ổn định áp huyết, ngăn chặn
những cơn đau tim, đột quỵ. Chỉ với 1/4 chén vừng (36g hạt vừng) cung cấp tới
31,6 % nhu cầu magie hằng ngày.
– Tăng tiết mật, ngừa sỏi mật:
Chất
Licithin cuả vừng bổ sung lecithin trong mật, tăng chất lượng mật, giúp nhũ hóa
cholesterol nên không tạo sỏi, song song vừng làm tăng tiết mật nên có khả năng
đẩy những sỏi nhỏ vào ruột.
– Bổ xương, trị thoái hóa khớp:
100g
vừng có 1257mg calci và 3,1mg mangan. Nhưng quan yếu hơn, vừng bổ thận mà thận
chủ cốt tủy nên ăn vừng có tác dụng bổ xương.
Bên
cạnh đó, vừng có nhiều mangan tham gia cấu trúc enzym super oxyd dismuthase
(SOD), một enzym quan yếu trong quá trình oxyd hóa, tham gia tái tạo khung sụn.
Protein và lipid cuả vừng cung cấp nguyên liệu tổng hợp chondroitin cho dịch
khớp.
Chính
vì thế, dù người ta tiêu thụ vừng ít hơn so với các loại thực phẩm khác nhưng
loại hạt này có tác dụng bổ thận bổ xương rõ rệt.

ConversionConversion EmoticonEmoticon